Sự bùng phát của dịch hại thứ cấp; kháng sâu bệnh ngày càng tăng; độc tính của đất, không khí, nước và thực phẩm; ảnh hưởng bất lợi cho con người; và sự mất cân bằng sinh thái là một số tác động không thể chấp nhận được của việc sử dụng liên tục và quá mức các loại thuốc trừ sâu có nguồn gốc hóa học. Những vấn đề nổi cộm như vậy đang rất được quan tâm và đã khiến nhiều quốc gia phải sửa đổi chính sách hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu hóa học và chuyển sang các phương pháp kiểm soát sinh học tốt hơn. Áp dụng các loại thuốc trừ sâu sinh học mới thân thiện với môi trường là một lựa chọn tốt hơn so với các kỹ thuật kiểm soát hóa học thông thường. Trong điều kiện quản lý dịch hại tổng hợp, thuốc trừ sâu sinh học đã cho thấy hiệu quả tốt hơn so với thuốc tổng hợp. Nhu cầu hữu cơ ngày càng tăng và sản phẩm cây trồng không có dư lượng là một số yếu tố thúc đẩy quyết định nhu cầu thuốc trừ sâu sinh học. Cuối cùng, nhu cầu về thuốc diệt khuẩn sinh học, thuốc diệt nấm và chất diệt khuẩn sinh học đang tăng lên theo cấp số nhân. Thị trường thuốc trừ sâu sinh học của Mỹ đã dự đoán rằng nó có thể tăng lên khoảng 300 triệu đô la vào năm 2020. Ở Ấn Độ, chỉ có 4,2% thị trường thuốc trừ sâu nói chung là bao gồm thuốc trừ sâu sinh học. Dự kiến sẽ mở rộng với tốc độ tăng trưởng hàng năm khoảng 10% trong tương lai gần. Cho đến nay, chỉ có 20 – 30 loại thuốc trừ sâu sinh học được đăng ký theo Đạo luật Thuốc trừ sâu năm 1968. Các loại thuốc trừ sâu sinh học đáng kể được sản xuất và sử dụng ở Ấn Độ là Bacillus thuringiensis, thuốc trừ sâu gốc neem, Trichoderma, và virus gây bệnh đa bội sắc.
Các biện pháp chính sách
Thuốc trừ sâu sinh học không tạo ra bất kỳ yếu tố nguy cơ nào; do đó, Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA), Hoa Kỳ, thúc đẩy sự phát triển và sử dụng của nó. EPA có thể đăng ký bất kỳ loại thuốc trừ sâu sinh học mới nào trong vòng một năm dựa trên độc lực, thành phần và khả năng cung cấp dữ liệu của nó. Việc kiểm tra thường xuyên và liên tục được thực hiện để điều chỉnh hiệu lực của thuốc trừ sâu sinh học hiện hành. Ấn Độ cũng đã áp dụng các chiến lược IPM và coi việc sử dụng các loại thuốc trừ sâu sinh học khác nhau là thành phần chính của mình. Ở đây, Bộ Nông nghiệp áp dụng việc sử dụng thuốc trừ sâu theo Dự luật Quản lý Thuốc bảo vệ thực vật 2008. Để thay thế cho thuốc trừ sâu tổng hợp thông thường, thuốc trừ sâu sinh học phải đối mặt với vô số vấn đè sản xuất, phát triển và ứng dụng.
Đề xuất phát triển thuốc trừ sâu vi sinh
Thuốc trừ sâu vi sinh đã được sử dụng rộng rãi như thuốc trừ sâu sinh học để kiểm tra sự xâm nhập của sâu bệnh và cải thiện sản lượng cây trồng. Hơn nữa, các khuyến nghị được đề cập dưới đây có thể được xem xét để sử dụng hiệu quả các vi sinh vật để hạn chế sự xâm nhập của dịch hại:
- Cần nỗ lực quảng cáo và chấp nhận các chiến lược kiểm soát sinh học bởi tất cả những người tham gia trong chuỗi tiếp thị từ người sản xuất đến người tiêu dùng.
- Các hoạt động tiếp cận như trình diễn, quảng bá và các chương trình đào tạo có thể được thực hiện để phổ biến thuốc trừ sâu sinh học trong người tiêu dùng.
- Nghiên cứu sâu hơn là cần thiết để tìm ra những phương pháp mới có thể được áp dụng để khắc phục những hạn chế đó đang phải đối mặt khi sử dụng thuốc trừ sâu vi khuẩn như sự nhạy cảm của họ với ánh sáng UV, hút ẩm…
- Cần tiếp tục tìm kiếm các tác nhân kiểm soát sinh học mới để sử dụng trong tương lai ở các loại môi trường sống và khí hậu khác nhau.
- Phương pháp mới hơn của sản xuất, xây dựng, lưu trữ, và nhu cầu ứng dụng được thiết lập cho tốt hơn, người dùng thân thiện, và tiết kiệm chi phí tính hiệu quả.
- Các cây chuyển gen có gen vi sinh vật có thể được tạo ra cho các cây trồng chính.
- Nghiên cứu sâu hơn là cần thiết để tìm ra hệ sinh thái của các mầm bệnh dịch hại cho việc sử dụng bền vững của chúng.
(Trích nguồn: Phân bón sinh học cho nông nghiệp bền vững và môi trường – Tác giả: TS. Nguyễn Thị Ngọc Trúc)
Quý khách hàng quan tâm đến sản phẩm đạm hữu cơ Hươu Xanh có thể đặt mua ngay tại đây hoặc liên hệ hotline 0358782777 để được tư vấn về sản phẩm một cách chu đáo nhất!